Mùa xuân không thể không lên Tây Bắc, dù chỉ một lần. Bởi Tây Bắc hùng vĩ và hoang dại khi chớm xuân bỗng trở nên dịu dàng, e lệ đến ngạc nhiên du lich phu quoc khi có những cánh đào nở thắm các cánh rừng, cheo leo trên vách đá, tô hồng con đường vào bản cùng những bờ rào e ấp nếp nhà tranh.
Mà chả cần đợi đến khi xuân sang. Có những năm trời ấm, mới giữa đông, đào núi đã bung sắc rực rỡ. Năm nay, nghe nói đào Sa Pa nở sớm. Mới giữa tháng 11 đầu tháng 12, đào núi đã nở hoa đợt đầu tiên. Vậy là chúng tôi lại háo hức lên đường, để lại được thấy một Tây Bắc dịu dàng trong màu hoa đào.
Trên đường lên Tây Bắc, đã bao lần chúng tôi thả mình trên những con đèo chênh vênh vắt ngang sườn núi như một sợi chỉ mảnh, để cho gió ngàn đuổi ràn rạt sau lưng.
Rồi cũng bấy nhiêu lần cả đoàn xe khựng lại ở đỉnh đèo, choáng ngợp với cảnh thiên nhiên hùng vĩ trải ra dưới chân mình, với thung lũng bình yên có những nếp nhà tranh tỏa khói lam chiều trong ngày hè muộn, những dãy núi điệp trùng chìm khuất trong biển mây bàng bạc ngày đầu đông.
Nhưng chỉ khi xuân đến, khi cả thung lũng bừng lên sắc hồng của hoa đào, sắc trắng tinh khôi của hoa mận, mới có thể khiến chúng tôi bỏ xe trên đường, tụt xuống bờ đất dốc đứng để vào thung. Những bước chân cứ xa dần, đi sâu vào thung hoa, đuổi theo những nếp váy sặc sỡ của những đứa trẻ vùng cao.
Chúng leo trèo, đu bám trên những cành cây xù xì, cười giòn tan giữa một trời hoa đào thắm du lich campuchia, hồn nhiên như cỏ hoa, khiến những người khách lạ đã qua tuổi hồn nhiên từ lâu bỗng thấy mình trẻ lại, cũng hớn hở nhập bọn, nghịch ngợm nô đùa.
Có khi, chẳng cần đến một thung hoa ngập sắc đào hồng, chỉ một cây đào cổ thụ bám cheo leo trên vách núi cũng khiến chúng tôi dừng chân cả một buổi chiều. Vách núi đá xám xịt, mờ ảo giữa sương chiều bảng lảng, làm nổi bật sắc đào bừng những cánh thắm, đẹp như tranh thủy mặc.
Chúng tôi cứ ngồi im lặng bên vệ đường, qua một vực sâu, mơ màng nghĩ đến cảnh được nằm dài vắt vẻo trên cành cây chìa ngang miệng vực, để những cánh hoa nhỏ xinh phơn phớt hồng nhẹ nhàng đậu xuống người, như ở giữa động tiên. Nhưng chúng tôi bất lực trước vực sâu hun hút lởm chởm đá sắc, cũng như các loại máy ảnh to nhỏ bất lực trước những cánh đào thắm ẩn hiện trong sương.
Khắp đường xuân Tây Bắc, từ Mộc Châu, Sơn La vòng lên Lai Châu, Điện Biên, rẽ sang Sa Pa, Lào Cai... nơi nào cũng thắm sắc hoa đào. Cũng là đào phai, cũng sắc hồng phơn phớt, cũng thân cành rêu mốc xù xì cổ thụ, nhưng đào rừng khác hẳn với đào vườn trồng dưới xuôi. Gốc đào rừng dũng mãnh phong sương, sắc hoa như thắm hơn, mơn mởn sức sống hơn.
Cũng phải thôi, bởi đào rừng đâm chồi trong cái lạnh tê tái của núi rừng, nở hoa giữa những ngọn gió ngàn vi vút non cao, chẳng được chăm bón, tỉa tót như đào vườn. Lại thêm, đào rừng khoe dáng giữa núi non hùng vĩ, khoáng đạt, chẳng phải chen chúc trong phố phường chật hẹp.
Cũng có khi, đào Tây Bắc không huyền bí, hoang dại mà gần gũi, ngay trên con đường đất dẫn vào bản uốn lượn quanh sườn núi và những nếp nhà nhỏ xinh.
Những cành đào hai bên đường vươn ra, kết thành mái vòm. Dưới vòm hoa rực hồng ấy,du lich thai lan ánh mắt cười của những bà cụ cõng bó củi nhặt từ rừng về như lấp lánh hơn, má đào của cô thiếu nữ gùi hàng sau buổi chợ phiên cũng hây hây hơn, tiếng cười của những cậu bé chăn trâu cũng lanh lảnh hơn, làm rung rinh cả những cánh hoa đào.
Có lần, chúng tôi đánh bạo xin dừng chân trong một ngôi nhà ven đường, chỉ vì một gốc đào quá đẹp ở sân trước.
Thay vì quây quần bên bếp lửa ấm cúng, chúng tôi lại xin ra ngồi dưới gốc đào, giữa tiết mưa phùn lây rây tê tái lạnh. Thêm một can rượu ngô cay nồng và vài xâu thịt gác bếp do anh chủ nhà hiếu khách đưa ra, cả lũ chúng tôi ngồi gần hết chiều chếnh choáng uống rượu ngô lẫn cánh hoa đào.
Chưa từng thấy ai mê mẩn với gốc đào cổ thụ đến thế, anh chủ nhà ngỏ ý chặt một cành đẹp nhất tặng chúng tôi đem về xuôi.
Nhưng chúng tôi từ chối. Bởi chúng tôi biết rằng, đào Tây Bắc chỉ đẹp khi đu mình cheo leo trên vách đá, khi nép bên nếp nhà lợp gỗ chiều chiều tỏa khói bếp ấm ấp giữa bản Mông, khi có những nếp váy thổ cẩm xanh đỏ của bọn trẻ tung tăng đùa nghịch dưới gốc.
Nếu về thành phố, chui rúc trong những mái nhà bêtông chật chội, đua chen với đèn đóm sáng trưng, màu đào ấy sẽ phai sắc đi rất nhiều.
Vì thế, xuân nào chúng tôi cũng lên miền núi cao, cũng dừng chân thật lâu bên những gốc đào thắm, để ghi lại trong du lich ha long ký ức mình sắc đào phai giữa núi rừng Tây Bắc.
Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012
Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012
Nơi đầu sóng - Đảo Chìm đã nổi
Sau nhiều ngày thi công khẩn trương giữa cái nắng cháy da,du lich phu quoc những viên đá đầu tiên đã nhô lên khỏi mặt nước. Thêm một điểm đảo nhỏ đã hiện hữu giữa Trường Sa!
< Vận chuyển đá lớn lên xe, đưa xuống tàu.
Sau những ngày dầm mưa, dãi nắng, ngâm trong nước biển mặn và vượt qua bao khó khăn gian khổ của 60 cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh Hải quân, một điểm đảo nhỏ ở khu vực đảo Đá Tây thuộc quần đảo Trường Sa đã tạo hình nhô lên mặt nước. Việc xây đảo ở Đảo Chìm vô cùng ý nghĩa, đó không chỉ là kết quả của chương trình “Góp đá xây Trường Sa” của hàng triệu tấm lòng trên khắp mọi miền đất nước, mà còn khẳng định sức mạnh nội lực của quân dân huyện đảo Trường Sa và khát vọng bảo vệ, giữ gìn quần đảo máu thịt thiêng liêng của quân, dân cả nước.
Viên đá tình người
Lần đầu tiên trên quân cảng Hải đoàn 129 Hải quân Vũng Tàu chứa một lượng đá khổng lồ được những người lính trẻ của Trung đoàn 131 Công binh chuyển xuống tàu đem ra Trường Sa xây đảo. Hơn 4.000 viên đá chẻ và hàng chục ngàn viên đá hộc được bạn đọc và nhân dân cả nước đóng góp, trong chương trình “Góp đá xây Trường Sa” chuyển ra xây đảo Đá Tây. Xúc động, khâm phục là cảm giác đầu tiên khi tận mắt chứng chiến những chiến sĩ trẻ Hải quân vác từng viên đá xuống tàu giữa trưa nắng chói chang của miền Đông Nam bộ.
< Cẩu đưa đá xuống hầm tàu Trường Sa 21.
Tôi còn nhớ như in buổi sáng 19/9 ấy. Quân cảng Hải đoàn 129 nhộn nhịp người, xe. Gần 100 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 131 Công binh Hải quân, cán bộ chiến sĩ của tàu Trường Sa 21 mồ hôi nhễ nhại chuyển đá xuống tàu và sẵn sàng đi đảo. Mặc cho nắng gió, mặc cho mồ hôi đẫm áo, người vác, người khiêng, người xếp đá vào cẩu. Hơn 100 sinh viên trường Trung học Du lịch và trường Đại học Vũng Tàu cũng có mặt để chuyển đá ra Trường Sa.
< Những viên đá chẻ có nhiều chữ ký của sinh viên cả nước được chuyển xuống tàu đi xây đảo Đá Tây.
Đại tá Nguyễn Viết Nhất, Chính ủy Trung đoàn 131 Công binh Hải quân chia sẻ: “Nén chặt trong mỗi viên đá này là tình cảm của hàng triệu người dân trên mọi miền Tổ Quốc dành cho các chiến sĩ Trường Sa.
Đem được viên đá ra Trường Sa xây đảo đã cực kỳ khó khăn, song để xây được đảo vững vàng ở vùng biển bão tố ấy còn gian khổ bội phần. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh Hải quân chúng tôi hành quân ra Trường Sa xây đảo theo mệnh lệnh trái tim người lính. Tất cả vì Trường Sa thân yêu, vì biển, đảo Tổ quốc, vì chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.

< Tàu Trường Sa 21 xuất phát đi đảo, hàng trăm cánh tay chào tạm biệt và gửi gắm niềm tin.
Chúng ta đem đá ra Trường Sa xây đảo,du lich campuchia chính là đem tình cảm của nhân dân cả nước và hơi ấm đất liền, tiếp cho đảo thêm sức mạnh và niềm tin yêu từ đất liền”.
Chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Thái lần đầu tiên xung phong ra Trường Sa xây đảo phấn khởi: “Đây là lần đầu tiên em xung phong ra Trường Sa, cũng là lần đầu tiên em cảm nhận được 2 tiếng Tổ quốc thiêng liêng trong trái tim mình. Bây giờ em mới hiểu, góp đá xây Trường Sa có ý nghĩa lớn lao và ý nghĩa như thế nào. Lần này em xung phong ra Trường Sa, em muốn thử sức trai trẻ của mình nơi đầu sóng ngọn gió ấy”.
Tổ quốc hiện hữu nơi Trường Sa
Chiều 19/9/2011, gần 100 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 131 Công binh Hải quân và Tàu 21 Trường Sa của Lữ đoàn 125, cùng đông đảo sinh viên trường Du lịch và trường Đại học Vũng Tàu đã chuyển hơn 1.000 tấn đá, sắt thép, vật liệu xây dựng xuống tàu đêm ra Trường Sa xây đảo. Những cái bắt tay siết chặt, những giọt nước mắt xúc động giữa người đi, người ở lại, giữa các bạn sinh viên và những người lính trẻ cứ hòa lẫn vào nhau. Tàu Trường Sa 21 của Lữ đoàn 125 rời bến ra khơi trong niềm vui chia tay xúc động lưu luyến ấy.
Sau 3 ngày thi công khẩn trương giữa cái nắng cháy da và cơn khát cháy lòng, những viên đá đầu tiên đã nhô lên khỏi mặt nước. Đó là lúc 10h ngày 2/10/2011. Tất cả cán bộ chiến sĩ trong đội xây đảo không kìm được xúc động.
Giữa ngàn khơi, giọt nước mắt của các chiến sĩ hòa lẫn cùng nước biển. Hạnh phúc và vỡ òa, sung sướng và kiêu hãnh là cảm giác của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh khi nhìn thấy đảo nhỏ bắt đầu nhô lên mặt biển.
Có chiến sĩ nằm ngửa lên những mỏm đá sắc nhọn nhìn bầu trời Tổ quốc. Có chiến sĩ đứng trên mỏm đá cao nhất cầm viên đá giơ cao nói với biển trời “Đây là đảo Đá Tây,du lich thai lan là đảo của Việt Nam thân yêu. Nơi đầu sóng này, Đảo Chìm đã nổi rồi”.
Không dấu nổi xúc động, Kỹ sư Đại Quang Trung, người chịu trách nhiệm thiết kế kỹ thuật chia sẻ: “Từ bây giờ Đảo Chìm sẽ không chìm nữa. Nhìn viên đá nhô cao lên khỏi mặt nước tôi cảm thấy Tổ quốc thân yêu của mình đang hé mở. Cụm đảo Đá Tây có thêm một điểm nhỏ. Những người lính Trường Sa đã có thêm sức mạnh mới”.
Sức mạnh từ lòng yêu nước
Cụm đảo Đá Tây thuộc Đảo Chìm, nằm trong quần đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa, cách Vũng Tàu chừng 600 km. Đảo Đá Tây được bao bọc xung quanh chủ yếu là bãi ngầm và san hô. Với chiều dài 7 hải lý, chiều rộng 4 hải lý, đảo Đá Tây có hình lòng chảo. Lúc thủy triều xuống thấp nhất nhìn rõ những bãi đá ngầm. Địa thế của đảo chìm Đá Tây thuận lợi cho việc nuôi cá chim trắng trong lồng sắt, là nơi neo đậu an toàn cho các tàu thuyền khi gặp bão tố, lốc xoáy. Hiện đảo Đá Tây có các điểm đảo A,B,C, là nơi sinh sống, bảo vệ, nuôi trồng thủy hải sản của quân, dân huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa.
< Công trình góp đá xây Trường Sa đã đổ cột bêtông.
Việc xây dựng đảo Đá Tây thêm vững chắc không chỉ là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ chủ quyền, biển, đảo, thềm lục địa Tổ quốc, mà còn khẳng định quyền làm chủ của quân dân huyện đảo Trường Sa trong việc bảo vệ, giữ gìn phần máu thịt thiêng liêng của dân tộc. Xây dựng đảo Đá Tây thêm vững chắc, là khẳng định sức mạnh nội lực, đồng thời là khát vọng hòa bình của cả dân tộc Việt Nam.
Trung úy Phạm Văn Hiệu, người có thâm niên đi xây nhiều công trình ở đảo Trường Sa cho biết: “Đối với lính Hải quân Công binh Trung đoàn 131 chúng tôi, xây đảo là nhiệm vụ thiêng liêng. Mỗi viên đá đem ra từ đất liền tốn tất nhiều công sức, mồ hôi, thậm chí đổ cả máu. Mỗi hòn đảo được xây dựng vững chắc hơn,du lich ha long đều có tình cảm gửi gắm của hàng triệu trái tim của người dân từ đất liền. Đảo Đá Tây thêm vững chắc là tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ Trường Sa. Quần đảo Trường Sa được xây dựng ngày càng vững chắc là nhờ có sức mạnh từ lòng yêu nước của nhân dân cả nước”.
< Vận chuyển đá lớn lên xe, đưa xuống tàu.
Sau những ngày dầm mưa, dãi nắng, ngâm trong nước biển mặn và vượt qua bao khó khăn gian khổ của 60 cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh Hải quân, một điểm đảo nhỏ ở khu vực đảo Đá Tây thuộc quần đảo Trường Sa đã tạo hình nhô lên mặt nước. Việc xây đảo ở Đảo Chìm vô cùng ý nghĩa, đó không chỉ là kết quả của chương trình “Góp đá xây Trường Sa” của hàng triệu tấm lòng trên khắp mọi miền đất nước, mà còn khẳng định sức mạnh nội lực của quân dân huyện đảo Trường Sa và khát vọng bảo vệ, giữ gìn quần đảo máu thịt thiêng liêng của quân, dân cả nước.
Viên đá tình người
Lần đầu tiên trên quân cảng Hải đoàn 129 Hải quân Vũng Tàu chứa một lượng đá khổng lồ được những người lính trẻ của Trung đoàn 131 Công binh chuyển xuống tàu đem ra Trường Sa xây đảo. Hơn 4.000 viên đá chẻ và hàng chục ngàn viên đá hộc được bạn đọc và nhân dân cả nước đóng góp, trong chương trình “Góp đá xây Trường Sa” chuyển ra xây đảo Đá Tây. Xúc động, khâm phục là cảm giác đầu tiên khi tận mắt chứng chiến những chiến sĩ trẻ Hải quân vác từng viên đá xuống tàu giữa trưa nắng chói chang của miền Đông Nam bộ.
< Cẩu đưa đá xuống hầm tàu Trường Sa 21.
Tôi còn nhớ như in buổi sáng 19/9 ấy. Quân cảng Hải đoàn 129 nhộn nhịp người, xe. Gần 100 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 131 Công binh Hải quân, cán bộ chiến sĩ của tàu Trường Sa 21 mồ hôi nhễ nhại chuyển đá xuống tàu và sẵn sàng đi đảo. Mặc cho nắng gió, mặc cho mồ hôi đẫm áo, người vác, người khiêng, người xếp đá vào cẩu. Hơn 100 sinh viên trường Trung học Du lịch và trường Đại học Vũng Tàu cũng có mặt để chuyển đá ra Trường Sa.
< Những viên đá chẻ có nhiều chữ ký của sinh viên cả nước được chuyển xuống tàu đi xây đảo Đá Tây.
Đại tá Nguyễn Viết Nhất, Chính ủy Trung đoàn 131 Công binh Hải quân chia sẻ: “Nén chặt trong mỗi viên đá này là tình cảm của hàng triệu người dân trên mọi miền Tổ Quốc dành cho các chiến sĩ Trường Sa.
Đem được viên đá ra Trường Sa xây đảo đã cực kỳ khó khăn, song để xây được đảo vững vàng ở vùng biển bão tố ấy còn gian khổ bội phần. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh Hải quân chúng tôi hành quân ra Trường Sa xây đảo theo mệnh lệnh trái tim người lính. Tất cả vì Trường Sa thân yêu, vì biển, đảo Tổ quốc, vì chủ quyền thiêng liêng của dân tộc.

< Tàu Trường Sa 21 xuất phát đi đảo, hàng trăm cánh tay chào tạm biệt và gửi gắm niềm tin.
Chúng ta đem đá ra Trường Sa xây đảo,du lich campuchia chính là đem tình cảm của nhân dân cả nước và hơi ấm đất liền, tiếp cho đảo thêm sức mạnh và niềm tin yêu từ đất liền”.
Chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Thái lần đầu tiên xung phong ra Trường Sa xây đảo phấn khởi: “Đây là lần đầu tiên em xung phong ra Trường Sa, cũng là lần đầu tiên em cảm nhận được 2 tiếng Tổ quốc thiêng liêng trong trái tim mình. Bây giờ em mới hiểu, góp đá xây Trường Sa có ý nghĩa lớn lao và ý nghĩa như thế nào. Lần này em xung phong ra Trường Sa, em muốn thử sức trai trẻ của mình nơi đầu sóng ngọn gió ấy”.
Tổ quốc hiện hữu nơi Trường Sa
Chiều 19/9/2011, gần 100 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 131 Công binh Hải quân và Tàu 21 Trường Sa của Lữ đoàn 125, cùng đông đảo sinh viên trường Du lịch và trường Đại học Vũng Tàu đã chuyển hơn 1.000 tấn đá, sắt thép, vật liệu xây dựng xuống tàu đêm ra Trường Sa xây đảo. Những cái bắt tay siết chặt, những giọt nước mắt xúc động giữa người đi, người ở lại, giữa các bạn sinh viên và những người lính trẻ cứ hòa lẫn vào nhau. Tàu Trường Sa 21 của Lữ đoàn 125 rời bến ra khơi trong niềm vui chia tay xúc động lưu luyến ấy.
Sau 3 ngày thi công khẩn trương giữa cái nắng cháy da và cơn khát cháy lòng, những viên đá đầu tiên đã nhô lên khỏi mặt nước. Đó là lúc 10h ngày 2/10/2011. Tất cả cán bộ chiến sĩ trong đội xây đảo không kìm được xúc động.
Giữa ngàn khơi, giọt nước mắt của các chiến sĩ hòa lẫn cùng nước biển. Hạnh phúc và vỡ òa, sung sướng và kiêu hãnh là cảm giác của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 131 Công binh khi nhìn thấy đảo nhỏ bắt đầu nhô lên mặt biển.
Có chiến sĩ nằm ngửa lên những mỏm đá sắc nhọn nhìn bầu trời Tổ quốc. Có chiến sĩ đứng trên mỏm đá cao nhất cầm viên đá giơ cao nói với biển trời “Đây là đảo Đá Tây,du lich thai lan là đảo của Việt Nam thân yêu. Nơi đầu sóng này, Đảo Chìm đã nổi rồi”.
Không dấu nổi xúc động, Kỹ sư Đại Quang Trung, người chịu trách nhiệm thiết kế kỹ thuật chia sẻ: “Từ bây giờ Đảo Chìm sẽ không chìm nữa. Nhìn viên đá nhô cao lên khỏi mặt nước tôi cảm thấy Tổ quốc thân yêu của mình đang hé mở. Cụm đảo Đá Tây có thêm một điểm nhỏ. Những người lính Trường Sa đã có thêm sức mạnh mới”.
Sức mạnh từ lòng yêu nước
Cụm đảo Đá Tây thuộc Đảo Chìm, nằm trong quần đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa, cách Vũng Tàu chừng 600 km. Đảo Đá Tây được bao bọc xung quanh chủ yếu là bãi ngầm và san hô. Với chiều dài 7 hải lý, chiều rộng 4 hải lý, đảo Đá Tây có hình lòng chảo. Lúc thủy triều xuống thấp nhất nhìn rõ những bãi đá ngầm. Địa thế của đảo chìm Đá Tây thuận lợi cho việc nuôi cá chim trắng trong lồng sắt, là nơi neo đậu an toàn cho các tàu thuyền khi gặp bão tố, lốc xoáy. Hiện đảo Đá Tây có các điểm đảo A,B,C, là nơi sinh sống, bảo vệ, nuôi trồng thủy hải sản của quân, dân huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa.
< Công trình góp đá xây Trường Sa đã đổ cột bêtông.
Việc xây dựng đảo Đá Tây thêm vững chắc không chỉ là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ chủ quyền, biển, đảo, thềm lục địa Tổ quốc, mà còn khẳng định quyền làm chủ của quân dân huyện đảo Trường Sa trong việc bảo vệ, giữ gìn phần máu thịt thiêng liêng của dân tộc. Xây dựng đảo Đá Tây thêm vững chắc, là khẳng định sức mạnh nội lực, đồng thời là khát vọng hòa bình của cả dân tộc Việt Nam.
Trung úy Phạm Văn Hiệu, người có thâm niên đi xây nhiều công trình ở đảo Trường Sa cho biết: “Đối với lính Hải quân Công binh Trung đoàn 131 chúng tôi, xây đảo là nhiệm vụ thiêng liêng. Mỗi viên đá đem ra từ đất liền tốn tất nhiều công sức, mồ hôi, thậm chí đổ cả máu. Mỗi hòn đảo được xây dựng vững chắc hơn,du lich ha long đều có tình cảm gửi gắm của hàng triệu trái tim của người dân từ đất liền. Đảo Đá Tây thêm vững chắc là tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ Trường Sa. Quần đảo Trường Sa được xây dựng ngày càng vững chắc là nhờ có sức mạnh từ lòng yêu nước của nhân dân cả nước”.
Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012
Chùa Hương vào hội: Giá vé, giá đò đều tăng
Công tác chuẩn bị cho Lễ hội chùa Hương - lễ hội lớn nhất và dài nhất miền Bắc đang được triển khai tích cực. Rút kinh nghiệm từ những mùa trước, năm nay BTC khẳng định, sẽ không còn chuyện tắc đường, tắc đò vào những ngày cao điểm. Và nét mới nhất của lễ hội năm nay là từ giá vé thắng cảnh đến vé đò đều rục rịch tăng với mức khá cao.
Tăng vé để đầu tư cho tu bổ
Trước xu hướng các khu danh lam thắng cảnh đều tăng giá vé, mùa hội 2012 này, vé thắng cảnh và vé đò tại chùa Hương cũng được điều chỉnh theo hướng “nhích lên”. Bắt đầu từ ngày 2-1-2012,du lich phu quoc giá vé thắng cảnh mới sẽ được áp dụng với mức 49.000 đồng, cộng thêm 1.000 đồng phí bảo hiểm, tổng cộng là 50.000 đồng/vé (tăng 20.000 đồng/vé so với mùa hội trước). Các loại vé đò dọc tại quần thể khu di tích cũng được điều chỉnh.
Cụ thể, đối với tuyến Suối Yến-Hương Tích, giá đò thường là 35.000 đồng/người/2 lượt vào ra; đò chất lượng cao là 40.000 đồng/người. Tuyến Long Vân-Tuyết Sơn, đò thường là 25.000 đồng/người, đò chất lượng cao là 30.000 đồng/người.
Ông Nguyễn Chí Thanh - Trưởng Ban Quản lý Danh thắng Hương Sơn lý giải, việc tăng giá vé trên phục vụ vào mục đích tu bổ, tôn tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng để đảm bảo cho việc hành hương của du khách được tốt hơn. Không chỉ tăng vé thắng cảnh, thuyền đò, mức phí trông giữ ô tô, xe máy hiện cũng đang được đề nghị điều chỉnh với mức đề xuất là 40.000 đồng/lượt cho xe 9 chỗ trở xuống (vé ngày); 50.000 đồng/lượt với xe trên 10 chỗ. Phí trông giữ xe ban đêm sẽ không được vượt quá 3 lần so với ban ngày du lich campuchia. Cụ thể xe nhỏ sẽ là 60.000 đồng/đêm và xe to là 70.000 đồng/đêm.
Dẹp cảnh thú rừng treo ngược
Một trong những cảnh phản cảm nhất nơi đất Phật là hình ảnh các con thú bị vặt sạch lông, thui vàng, được để nguyên “thây” treo lủng lẳng trước mỗi quán ăn. Những hình ảnh này đã trở thành nỗi ám ảnh của không ít du khách khi đến với chùa Hương. Mới đây nhất, Thanh tra Bộ VH-TT&DL đã yêu cầu Ban BTC Lễ hội chùa Hương dẹp tình trạng này, và bắt đầu từ mùa lễ hội 2012.
Ở những mùa hội trước, không ít du khách đã trở thành nạn nhân của “cò mồi”, “nạn chặt chém”. Và để làm trong sạch lễ hội, BTC lễ hội chùa Hương,du lich thai lan hiện đã lên phương án giảm hiện tượng này một cách thấp nhất có thể. Năm 2011, BTC đã xử lý 296 trường hợp đi xe máy mời chào, ép khách dọc đường.
Bên cạnh đó, BTC đã yêu cầu đơn vị quản lý cáp treo cam kết, chấn chỉnh khâu quản lý, phân phối vé, tránh hiện tượng vé cáp treo “đen” móc túi “hành” khách. Ông Nguyễn Chí Thanh khẳng định, năm nay BTC sẽ kiên quyết xử phạt thật nghiêm các trường hợp vi phạm, với mức xử phạt cao nhất. Theo đó, BTC lập một “đường dây nóng” tiếp nhận các phản hồi của du khách, kịp thời xử lý những phản ánh của người dân xung quanh hiện tượng cò mồi, ép giá.
Để thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, từ mùa hội 2012, BTC Lễ hội chùa Hương đã yêu cầu các cửa hàng ăn đều phải bảo quản đồ ăn trong tủ kính, đảm bảo các yêu cầu về bảo quản thực phẩm.
Xóa tắc đò, tắc đường
Tính tới thời điểm này, tổng số thuyền đò đăng ký lưu thông trong mùa hội tới là 4.500 chiếc, tăng hơn năm ngoái khoảng 300 chiếc. Điều đó có nghĩa, hiện tượng “cháy” đò trong những ngày cao điểm sẽ được giảm đi đáng kể. Giải tỏa được “nút cổ chai” này đã khiến cảnh tắc đò trên suối Yến không còn tái diễn. Mới đây nhất, BTC Lễ hội đã cùng chính quyền xã Hương Sơn thống nhất lại phương án đò thuyền, củng cố lại hệ thống biển báo giúp việc vận chuyển khách được tốt nhất.
Cũng theo ông Nguyễn Chí Thanh, mùa lễ hội này, hàng quán cũng đã được sắp xếp, quy hoạch lại với các quy định như nằm xa nơi thờ tự, đảm bảo an toàn,du lich ha long không ảnh hưởng đến tuyến đường hành hương. Hiện một lò đốt rác hiện đại đã hoàn tất và đi vào hoạt động, khắc phục tình trạng rác thải sinh hoạt gây ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, môi trường.
Tăng vé để đầu tư cho tu bổ
Trước xu hướng các khu danh lam thắng cảnh đều tăng giá vé, mùa hội 2012 này, vé thắng cảnh và vé đò tại chùa Hương cũng được điều chỉnh theo hướng “nhích lên”. Bắt đầu từ ngày 2-1-2012,du lich phu quoc giá vé thắng cảnh mới sẽ được áp dụng với mức 49.000 đồng, cộng thêm 1.000 đồng phí bảo hiểm, tổng cộng là 50.000 đồng/vé (tăng 20.000 đồng/vé so với mùa hội trước). Các loại vé đò dọc tại quần thể khu di tích cũng được điều chỉnh.
Cụ thể, đối với tuyến Suối Yến-Hương Tích, giá đò thường là 35.000 đồng/người/2 lượt vào ra; đò chất lượng cao là 40.000 đồng/người. Tuyến Long Vân-Tuyết Sơn, đò thường là 25.000 đồng/người, đò chất lượng cao là 30.000 đồng/người.
Ông Nguyễn Chí Thanh - Trưởng Ban Quản lý Danh thắng Hương Sơn lý giải, việc tăng giá vé trên phục vụ vào mục đích tu bổ, tôn tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng để đảm bảo cho việc hành hương của du khách được tốt hơn. Không chỉ tăng vé thắng cảnh, thuyền đò, mức phí trông giữ ô tô, xe máy hiện cũng đang được đề nghị điều chỉnh với mức đề xuất là 40.000 đồng/lượt cho xe 9 chỗ trở xuống (vé ngày); 50.000 đồng/lượt với xe trên 10 chỗ. Phí trông giữ xe ban đêm sẽ không được vượt quá 3 lần so với ban ngày du lich campuchia. Cụ thể xe nhỏ sẽ là 60.000 đồng/đêm và xe to là 70.000 đồng/đêm.
Dẹp cảnh thú rừng treo ngược
Một trong những cảnh phản cảm nhất nơi đất Phật là hình ảnh các con thú bị vặt sạch lông, thui vàng, được để nguyên “thây” treo lủng lẳng trước mỗi quán ăn. Những hình ảnh này đã trở thành nỗi ám ảnh của không ít du khách khi đến với chùa Hương. Mới đây nhất, Thanh tra Bộ VH-TT&DL đã yêu cầu Ban BTC Lễ hội chùa Hương dẹp tình trạng này, và bắt đầu từ mùa lễ hội 2012.
Ở những mùa hội trước, không ít du khách đã trở thành nạn nhân của “cò mồi”, “nạn chặt chém”. Và để làm trong sạch lễ hội, BTC lễ hội chùa Hương,du lich thai lan hiện đã lên phương án giảm hiện tượng này một cách thấp nhất có thể. Năm 2011, BTC đã xử lý 296 trường hợp đi xe máy mời chào, ép khách dọc đường.
Bên cạnh đó, BTC đã yêu cầu đơn vị quản lý cáp treo cam kết, chấn chỉnh khâu quản lý, phân phối vé, tránh hiện tượng vé cáp treo “đen” móc túi “hành” khách. Ông Nguyễn Chí Thanh khẳng định, năm nay BTC sẽ kiên quyết xử phạt thật nghiêm các trường hợp vi phạm, với mức xử phạt cao nhất. Theo đó, BTC lập một “đường dây nóng” tiếp nhận các phản hồi của du khách, kịp thời xử lý những phản ánh của người dân xung quanh hiện tượng cò mồi, ép giá.
Để thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, từ mùa hội 2012, BTC Lễ hội chùa Hương đã yêu cầu các cửa hàng ăn đều phải bảo quản đồ ăn trong tủ kính, đảm bảo các yêu cầu về bảo quản thực phẩm.
Xóa tắc đò, tắc đường
Tính tới thời điểm này, tổng số thuyền đò đăng ký lưu thông trong mùa hội tới là 4.500 chiếc, tăng hơn năm ngoái khoảng 300 chiếc. Điều đó có nghĩa, hiện tượng “cháy” đò trong những ngày cao điểm sẽ được giảm đi đáng kể. Giải tỏa được “nút cổ chai” này đã khiến cảnh tắc đò trên suối Yến không còn tái diễn. Mới đây nhất, BTC Lễ hội đã cùng chính quyền xã Hương Sơn thống nhất lại phương án đò thuyền, củng cố lại hệ thống biển báo giúp việc vận chuyển khách được tốt nhất.
Cũng theo ông Nguyễn Chí Thanh, mùa lễ hội này, hàng quán cũng đã được sắp xếp, quy hoạch lại với các quy định như nằm xa nơi thờ tự, đảm bảo an toàn,du lich ha long không ảnh hưởng đến tuyến đường hành hương. Hiện một lò đốt rác hiện đại đã hoàn tất và đi vào hoạt động, khắc phục tình trạng rác thải sinh hoạt gây ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, môi trường.
Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012
Đảo Phan Vinh - Trường Sa
Người chiến sĩ được đặt tên một hòn đảo Trường Sa: Anh đã ngã xuống, nhưng hòn đảo được bảo vệ, và được đặt tên của anh.
Hôm đoàn công tác chúng tôi ra thăm được chia làm hai nhóm để đến với anh em trên cả 2 điểm đảo Phan Vinh A và Phan Vinh B. Khi đặt chân lên cầu cảng, tất cả cán bộ, chiến sĩ đã chờ sẵn trên bờ từ khi nào. Sau những cái bắt tay siết chặt, những lời thăm hỏi thân tình,du lich phu quoc là khoảng lặng xúc động khi đoàn trưởng công tác kể câu chuyện về sự hi sinh quên mình của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh.
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Tôi đã nhiều lần đến Trường Sa, đã đi chân trần trên sỏi đá ở đảo Phan Vinh vào mùa biển lặng tháng tư hàng năm, lần nào cũng không kìm được xúc động, khi được chính các chiến sĩ ở hòn đảo nhỏ này kể câu chuyện về sự hi sinh kiên cường của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh.
Chiến sĩ trẻ Trần Văn Quyết, quê ở Đất đỏ Bà Rịa Vũng Tàu nói với chúng tôi: "Chúng em luôn tự hào về Nguyễn Phan Vinh, người thuyền trưởng của Đoàn tàu không số- hòn đảo duy nhất mang tên người anh hùng này, chúng em tự hào về điều đó".
Anh hùng Trung úy liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh sinh năm 1933 tại Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Như bao trai làng khác, năm 21 tuổi, Vinh lên đường tòng quân nhập ngũ. Hành trang luôn nung nấu trong tim anh là tình yêu Tổ quốc và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ngày lên đường, mẹ anh chỉ nói một câu "Tổ quốc đang cần con, con cứ đi đánh giặc". Lời nói ấy tiếp thêm trong tim anh luồng máu nóng. Tạm biệt xóm làng, Nguyễn Phan Vinh ra đi với lòng yêu quê hương vô hạn. Đó là vào một ngày cuối thu năm 1954.
Sau 9 năm kể từ ngày Nguyễn Phan Vinh lên đường tòng quân nhập ngũ vào quân đội, anh chưa về thăm gia đình lần nào, đầu năm 1963, mẹ anh mất vì bị địch bắt, bà bị đánh đập giã man sau một trận chống càn quân địch.
Cùng năm ấy, người anh trai của anh là Nguyễn Đức Lân hi sinh trên chiến trường Quảng Nam. Trận chiến không cân sức giữa tàu 235 với tàu địch ở vùng biển Hòn Hèo (xã Ninh Phước, Ninh Vân, Khánh Hòa) tháng 3-1968, anh và 14 đồng đội đã hi sinh. Cuối năm ấy, bố anh- Ông Nguyễn Đức Mẫn là du kích xã Điện Nam cũng hi sinh trong một trận chống địch càn quét tại xã.
Cũng vào thời điểm ấy, nhiều thanh niên, du kích, người dân ở mảnh đất nghèo khó này đã ngã xuống để bảo vệ dân làng. Nhiều người đã trở thành anh hùng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Anh ngã xuống giữa làn đạn địch
Vào năm 1968, cuộc chiến đấu của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt. Kẻ địch tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường "cực kỳ nguy hiểm" này. Chúng đã điều động một lực lượng không quân, hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển, đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia thành nhiều tổ, bố trí tàu chiến khắp nơi hòng ngăn chặn tàu của ta. Chúng lắp đặt radar chuyên dụng quét sóng đêm ngày. Trên trời chúng cho máy bay tuần đảo trinh sát, dưới đất chúng cho lính siết chặt canh phòng cẩn mật.
Nhận được mệnh lệnh cấp trên, 11 giờ 30 phút ngày 27-2-1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo dưới sự chỉ huy của Trung úy - thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh. Xác định, đây là chuyến đi cực kỳ nguy hiểm vì địch ráo riết kiểm soát. Hòn Hèo là bến luồng thủy hẹp, nhiều bãi đã ngầm, ngoằn nghoèo, địch bố phòng dầy đặc, đòi hỏi người thuyền trưởng phải có tay nghề lão luyện mới có thể đưa tàu vào bến an toàn. Đảng ủy Lữ đoàn 125 quyết định chọn tàu 235 vượt biển làm nhiệm vụ đặc biệt này.
Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và chiến sĩ thợ máy: Long An.

< Chiến sĩ trên đảo Phan Vinh.
Trước giờ nhổ neo, chiến sĩ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên chỉ còn lại 20 người. Đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Chiều tối 29-2, tàu 235 hải trình đến ngang vùng biển Nha Trang thì bị máy bay trinh sát của địch phát hiện,du lich campuchia tàu liền chuyển hướng vào bờ. Ngay lập tức, địch huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ 12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 khẩn cấp đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống tàu 235. Lúc này tàu 235 cách bờ 19 hải lý.
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả vũ khí đạn dược xuống nước để quân dân ở bến Hòn Hèo mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt thả xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây đuổi ở phía sau, phía trước là núi.

< Đại tướng Lê Đức Anh và các sỹ quan trên đảo Phan Vinh.
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh động viên anh em và cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân, vừa chạy, vừa nghi binh nhằm mục đích không cho địch biết vị trí tàu vừa thả vũ khí xuống biển. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội. Chúng điện cho nhau tất cả đều tắt đèn, tàu nào sáng đèn chứng tỏ đó là tàu Việt Cộng. Cuộc rượt đuổi trên biển diễn ra vô cùng ác liệt.
Tàu 235 rơi vào tình thế vô cùng khó khăn, phía trước là núi chắn, phía sau là 7 tàu chiến địch chặn đứng. Dưới ánh đèn pha sáng rực, chúng dùng súng 12,7 ly bắn xối xả vào tàu ta với hi vọng bắt sống. Các loại súng có sức hủy diệt như pháo cối, bắn liên tiếp lên dọc bờ hòng "Việt cộng nhảy xuống biển bơi vào bờ tẩu thoát". Sau đó chúng gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
< Đảo Phan Vinh ngày nay.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó vết thương trong buồng lái và động viên mọi người tiếp tục chiến đấu. Ý định của anh là phá vòng vây, vượt ra ngoài khơi cho dễ cơ động, nếu cần, áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng lúc đó máy tàu hỏng nặng, ý định phá vòng vây không thành.
Nguyễn Phan Vinh đã chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút ngày 1-3-1968, khi tàu cách bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, số còn lại được phân công cài kíp nổ, phá tàu. Các chiến sĩ Vinh, Thứ, An cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do chiến sĩ Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Sau khi cài xong kíp nổ, tất cả nhảy xuống nước bơi vào bờ, nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu ở chân núi Bà Nam. Chiến sĩ An được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ và sẵn sàng hi sinh. 20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3-1968, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang.
Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 bị đứt làm đôi, một nửa chìm trong nước, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Biết "Việt cộng" đang co cụm ở chân núi Bà Nam, địch đã gọi máy bay đến bắn phía ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ đã chỉ huy anh em kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Biết là sẽ hi sinh tại núi Hòn Hèo, nhưng Nguyễn Phan Vinh vẫn bình tĩnh động viên, chỉ huy các chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Một ngày, hai ngày, rồi mười ngày trôi qua, dưới cái nắng như thiêu như đốt, không lương thực, không nước uống, súng không còn đạn, 7 cán bộ chiến sĩ là Vinh, Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến, An đã kiệt sức vì vết thương quá nặng. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi Hòn Hèo. Đến ngày thứ 11, chiến sĩ Khung đi tìm nước uống nhưng không trở về, sau này mới biết Khung bị địch bắt. Vậy là còn 6 cán bộ chiến sĩ. Ngày thứ 12, anh em liên lạc được với du kích ở bến.
Noi gương anh quyết tâm giữ đảo
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.
Tên tuổi Nguyễn Phan Vinh và 14 chiến sĩ hải quân đã hy sinh tại biển Hòn Hèo năm 1968 được lập bia tại đảo Phan Vinh như nhắc nhở thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay và mai sau nêu gương sống,du lich thai lan chiến đấu và sẵn sàng hy sinh bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc. Tự hào hòn đảo mang tên người anh hùng, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ trên đảo Phan Vinh luôn nỗ lực vượt mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ nơi đầu sóng ngọn gió và quyết tâm giữ đảo, dù phải hi sinh đến tính mạng của mình.
< Cầu tàu trên đảo Phan Vinh A.
Hôm đoàn công tác chúng tôi ra thăm được chia làm hai nhóm để đến với anh em trên cả 2 điểm đảo Phan Vinh A và Phan Vinh B. Khi đặt chân lên cầu cảng, tất cả cán bộ, chiến sĩ đã chờ sẵn trên bờ từ khi nào. Sau những cái bắt tay siết chặt, những lời thăm hỏi thân tình, là khoảng lặng xúc động khi đoàn trưởng công tác kể câu chuyện về sự hi sinh quên mình của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh. Tất cả các nữ văn công đều khóc, còn chúng tôi ngậm ngùi chẳng nói nên lời. Tôi còn nhớ như in lời nói của chiến sĩ Nguyễn Hùng Hiền: "Trong gian khổ mới thấy đức hi sinh, trong gian nguy mới hiểu tình đồng đội. Thế hệ chúng tôi biết ơn anh Vinh bao nhiêu, thì càng quyết tâm giữ đảo bấy nhiêu. Phan Vinh luôn là niềm tự hào của những người lính biển".
Đảo Phan Vinh hôm nay xanh tươi bởi trăm loài cỏ cây hoa lá và đời sống bộ đội được cải thiện nhờ có điện từ nguồn năng lượng mặt trời. Dù ở biển, dù ở sông hay lênh đênh trên những con tàu vượt sóng ngàn khơi, cán bộ chiến sĩ đảo Phan Vinh đang ngày đêm vững vàng tay súng bảo vệ từng tấc đảo, sải sóng thiêng liêng của Tổ quốc.
< Đảo Phan Vinh B.
Đảo Phan Vinh (tên quốc tế: Pearson Reef), tên cũ là Hòn Sập là một hòn đảo san hô thuộc quần đảo Trường Sa, nằm tại tọa độ 8o56′ vĩ Bắc, 113o38′ kinh Đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 430 hải lý. Đảo này được hải quân nhân dân Việt Nam quản lý, cắm cờ từ năm 1988 sau khi Trung Quôc gây hấn tại quần đảo Trường Sa.
Đảo được đặt tên theo trung úy Nguyễn Phan Vinh, người Điện Bàn, thuyền trưởng của nhiều con tàu không số trong Chiến tranh Việt Nam. Đảo Phan Vinh hồi ấy chỉ nổi khi thủy triều xuống thấp,du lich ha long khi triều lên chỉ có một vài mỏm đá nổi cao hơn mặt nước. Đảo nằm cách dảo Núi Le 12 hải lý.
Đảo Phan Vinh A là đảo nổi hoàn toàn, Phan Vinh B được dựng xây trên bãi đá san hô ngấp nghé mặt nước khi thủy triều rút xuống - hai đảo cách nhau 7km.
Hôm đoàn công tác chúng tôi ra thăm được chia làm hai nhóm để đến với anh em trên cả 2 điểm đảo Phan Vinh A và Phan Vinh B. Khi đặt chân lên cầu cảng, tất cả cán bộ, chiến sĩ đã chờ sẵn trên bờ từ khi nào. Sau những cái bắt tay siết chặt, những lời thăm hỏi thân tình,du lich phu quoc là khoảng lặng xúc động khi đoàn trưởng công tác kể câu chuyện về sự hi sinh quên mình của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh.
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Tôi đã nhiều lần đến Trường Sa, đã đi chân trần trên sỏi đá ở đảo Phan Vinh vào mùa biển lặng tháng tư hàng năm, lần nào cũng không kìm được xúc động, khi được chính các chiến sĩ ở hòn đảo nhỏ này kể câu chuyện về sự hi sinh kiên cường của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh.
Chiến sĩ trẻ Trần Văn Quyết, quê ở Đất đỏ Bà Rịa Vũng Tàu nói với chúng tôi: "Chúng em luôn tự hào về Nguyễn Phan Vinh, người thuyền trưởng của Đoàn tàu không số- hòn đảo duy nhất mang tên người anh hùng này, chúng em tự hào về điều đó".
Anh hùng Trung úy liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh sinh năm 1933 tại Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Như bao trai làng khác, năm 21 tuổi, Vinh lên đường tòng quân nhập ngũ. Hành trang luôn nung nấu trong tim anh là tình yêu Tổ quốc và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ngày lên đường, mẹ anh chỉ nói một câu "Tổ quốc đang cần con, con cứ đi đánh giặc". Lời nói ấy tiếp thêm trong tim anh luồng máu nóng. Tạm biệt xóm làng, Nguyễn Phan Vinh ra đi với lòng yêu quê hương vô hạn. Đó là vào một ngày cuối thu năm 1954.
Sau 9 năm kể từ ngày Nguyễn Phan Vinh lên đường tòng quân nhập ngũ vào quân đội, anh chưa về thăm gia đình lần nào, đầu năm 1963, mẹ anh mất vì bị địch bắt, bà bị đánh đập giã man sau một trận chống càn quân địch.
Cùng năm ấy, người anh trai của anh là Nguyễn Đức Lân hi sinh trên chiến trường Quảng Nam. Trận chiến không cân sức giữa tàu 235 với tàu địch ở vùng biển Hòn Hèo (xã Ninh Phước, Ninh Vân, Khánh Hòa) tháng 3-1968, anh và 14 đồng đội đã hi sinh. Cuối năm ấy, bố anh- Ông Nguyễn Đức Mẫn là du kích xã Điện Nam cũng hi sinh trong một trận chống địch càn quét tại xã.
Cũng vào thời điểm ấy, nhiều thanh niên, du kích, người dân ở mảnh đất nghèo khó này đã ngã xuống để bảo vệ dân làng. Nhiều người đã trở thành anh hùng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Anh ngã xuống giữa làn đạn địch
Vào năm 1968, cuộc chiến đấu của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt. Kẻ địch tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường "cực kỳ nguy hiểm" này. Chúng đã điều động một lực lượng không quân, hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển, đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia thành nhiều tổ, bố trí tàu chiến khắp nơi hòng ngăn chặn tàu của ta. Chúng lắp đặt radar chuyên dụng quét sóng đêm ngày. Trên trời chúng cho máy bay tuần đảo trinh sát, dưới đất chúng cho lính siết chặt canh phòng cẩn mật.
Nhận được mệnh lệnh cấp trên, 11 giờ 30 phút ngày 27-2-1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo dưới sự chỉ huy của Trung úy - thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh. Xác định, đây là chuyến đi cực kỳ nguy hiểm vì địch ráo riết kiểm soát. Hòn Hèo là bến luồng thủy hẹp, nhiều bãi đã ngầm, ngoằn nghoèo, địch bố phòng dầy đặc, đòi hỏi người thuyền trưởng phải có tay nghề lão luyện mới có thể đưa tàu vào bến an toàn. Đảng ủy Lữ đoàn 125 quyết định chọn tàu 235 vượt biển làm nhiệm vụ đặc biệt này.
Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và chiến sĩ thợ máy: Long An.

< Chiến sĩ trên đảo Phan Vinh.
Trước giờ nhổ neo, chiến sĩ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên chỉ còn lại 20 người. Đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Chiều tối 29-2, tàu 235 hải trình đến ngang vùng biển Nha Trang thì bị máy bay trinh sát của địch phát hiện,du lich campuchia tàu liền chuyển hướng vào bờ. Ngay lập tức, địch huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ 12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 khẩn cấp đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống tàu 235. Lúc này tàu 235 cách bờ 19 hải lý.
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả vũ khí đạn dược xuống nước để quân dân ở bến Hòn Hèo mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt thả xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây đuổi ở phía sau, phía trước là núi.

< Đại tướng Lê Đức Anh và các sỹ quan trên đảo Phan Vinh.
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh động viên anh em và cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân, vừa chạy, vừa nghi binh nhằm mục đích không cho địch biết vị trí tàu vừa thả vũ khí xuống biển. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội. Chúng điện cho nhau tất cả đều tắt đèn, tàu nào sáng đèn chứng tỏ đó là tàu Việt Cộng. Cuộc rượt đuổi trên biển diễn ra vô cùng ác liệt.
Tàu 235 rơi vào tình thế vô cùng khó khăn, phía trước là núi chắn, phía sau là 7 tàu chiến địch chặn đứng. Dưới ánh đèn pha sáng rực, chúng dùng súng 12,7 ly bắn xối xả vào tàu ta với hi vọng bắt sống. Các loại súng có sức hủy diệt như pháo cối, bắn liên tiếp lên dọc bờ hòng "Việt cộng nhảy xuống biển bơi vào bờ tẩu thoát". Sau đó chúng gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
< Đảo Phan Vinh ngày nay.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó vết thương trong buồng lái và động viên mọi người tiếp tục chiến đấu. Ý định của anh là phá vòng vây, vượt ra ngoài khơi cho dễ cơ động, nếu cần, áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng lúc đó máy tàu hỏng nặng, ý định phá vòng vây không thành.
Nguyễn Phan Vinh đã chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút ngày 1-3-1968, khi tàu cách bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, số còn lại được phân công cài kíp nổ, phá tàu. Các chiến sĩ Vinh, Thứ, An cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do chiến sĩ Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Sau khi cài xong kíp nổ, tất cả nhảy xuống nước bơi vào bờ, nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu ở chân núi Bà Nam. Chiến sĩ An được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ và sẵn sàng hi sinh. 20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3-1968, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang.
Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 bị đứt làm đôi, một nửa chìm trong nước, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Biết "Việt cộng" đang co cụm ở chân núi Bà Nam, địch đã gọi máy bay đến bắn phía ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ đã chỉ huy anh em kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Biết là sẽ hi sinh tại núi Hòn Hèo, nhưng Nguyễn Phan Vinh vẫn bình tĩnh động viên, chỉ huy các chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Một ngày, hai ngày, rồi mười ngày trôi qua, dưới cái nắng như thiêu như đốt, không lương thực, không nước uống, súng không còn đạn, 7 cán bộ chiến sĩ là Vinh, Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến, An đã kiệt sức vì vết thương quá nặng. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi Hòn Hèo. Đến ngày thứ 11, chiến sĩ Khung đi tìm nước uống nhưng không trở về, sau này mới biết Khung bị địch bắt. Vậy là còn 6 cán bộ chiến sĩ. Ngày thứ 12, anh em liên lạc được với du kích ở bến.

Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.
Tên tuổi Nguyễn Phan Vinh và 14 chiến sĩ hải quân đã hy sinh tại biển Hòn Hèo năm 1968 được lập bia tại đảo Phan Vinh như nhắc nhở thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay và mai sau nêu gương sống,du lich thai lan chiến đấu và sẵn sàng hy sinh bảo vệ vùng biển, vùng trời của Tổ quốc. Tự hào hòn đảo mang tên người anh hùng, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ trên đảo Phan Vinh luôn nỗ lực vượt mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ nơi đầu sóng ngọn gió và quyết tâm giữ đảo, dù phải hi sinh đến tính mạng của mình.
< Cầu tàu trên đảo Phan Vinh A.
Hôm đoàn công tác chúng tôi ra thăm được chia làm hai nhóm để đến với anh em trên cả 2 điểm đảo Phan Vinh A và Phan Vinh B. Khi đặt chân lên cầu cảng, tất cả cán bộ, chiến sĩ đã chờ sẵn trên bờ từ khi nào. Sau những cái bắt tay siết chặt, những lời thăm hỏi thân tình, là khoảng lặng xúc động khi đoàn trưởng công tác kể câu chuyện về sự hi sinh quên mình của liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh. Tất cả các nữ văn công đều khóc, còn chúng tôi ngậm ngùi chẳng nói nên lời. Tôi còn nhớ như in lời nói của chiến sĩ Nguyễn Hùng Hiền: "Trong gian khổ mới thấy đức hi sinh, trong gian nguy mới hiểu tình đồng đội. Thế hệ chúng tôi biết ơn anh Vinh bao nhiêu, thì càng quyết tâm giữ đảo bấy nhiêu. Phan Vinh luôn là niềm tự hào của những người lính biển".
Đảo Phan Vinh hôm nay xanh tươi bởi trăm loài cỏ cây hoa lá và đời sống bộ đội được cải thiện nhờ có điện từ nguồn năng lượng mặt trời. Dù ở biển, dù ở sông hay lênh đênh trên những con tàu vượt sóng ngàn khơi, cán bộ chiến sĩ đảo Phan Vinh đang ngày đêm vững vàng tay súng bảo vệ từng tấc đảo, sải sóng thiêng liêng của Tổ quốc.
< Đảo Phan Vinh B.
Đảo Phan Vinh (tên quốc tế: Pearson Reef), tên cũ là Hòn Sập là một hòn đảo san hô thuộc quần đảo Trường Sa, nằm tại tọa độ 8o56′ vĩ Bắc, 113o38′ kinh Đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 430 hải lý. Đảo này được hải quân nhân dân Việt Nam quản lý, cắm cờ từ năm 1988 sau khi Trung Quôc gây hấn tại quần đảo Trường Sa.
Đảo được đặt tên theo trung úy Nguyễn Phan Vinh, người Điện Bàn, thuyền trưởng của nhiều con tàu không số trong Chiến tranh Việt Nam. Đảo Phan Vinh hồi ấy chỉ nổi khi thủy triều xuống thấp,du lich ha long khi triều lên chỉ có một vài mỏm đá nổi cao hơn mặt nước. Đảo nằm cách dảo Núi Le 12 hải lý.
Đảo Phan Vinh A là đảo nổi hoàn toàn, Phan Vinh B được dựng xây trên bãi đá san hô ngấp nghé mặt nước khi thủy triều rút xuống - hai đảo cách nhau 7km.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)